Non tháng là gì? Các công bố khoa học về Non tháng

Non tháng là một thuật ngữ địa lý được sử dụng trong các khu vực có khí hậu ôn đới. Non tháng thường đề cập đến một thời gian ngắn trong mùa đông khi nhiệt độ g...

Non tháng là một thuật ngữ địa lý được sử dụng trong các khu vực có khí hậu ôn đới. Non tháng thường đề cập đến một thời gian ngắn trong mùa đông khi nhiệt độ giảm xuống gần hoặc thấp hơn điểm đóng băng, nhưng chưa đủ lâu để được coi là mùa đông đầy đủ. Non tháng thường kéo dài từ cuối tháng 11 đến đầu tháng 12 hoặc từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 4. Trong khoảng thời gian này, thời tiết có thể biến đổi và người ta có thể chứng kiến sự thay đổi từ thời tiết mùa đông sang mùa xuân hoặc ngược lại.
Non tháng, còn gọi là non xuân hoặc non lạnh, là một biên giới mờ giữa mùa đông và mùa xuân. Nó xuất hiện trong một số khu vực có khí hậu ôn đới, như Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á. Thời gian và đặc điểm của non tháng có thể thay đổi tùy thuộc vào địa điểm cụ thể.

Non tháng thường là một giai đoạn ngắn, chỉ kéo dài từ vài tuần đến một tháng. Nó xảy ra khi nhiệt độ bắt đầu tăng nhưng vẫn dưới điểm đóng băng. Trong non tháng, ngày dần dài hơn và ánh sáng mặt trời mạnh mẽ hơn, dẫn đến sự tan chảy của tuyết và băng bên dưới mặt đất. Kết quả là cái rét của mùa đông bắt đầu suy yếu và những dấu hiệu của mùa xuân bắt đầu xuất hiện, như cây xanh nẩy mầm và hoa nở.

Non tháng có thể có thời tiết không ổn định và biến đổi nhanh chóng. Trong một ngày, nhiệt độ có thể dao động từ âm giữa đến dương, gây ra thay đổi từ tuyết thành mưa và ngược lại. Điều này làm cho non tháng trở thành một giai đoạn khá khó đoán được và không được coi là mùa đông đầy đủ hoặc mùa xuân chính thức.

Non tháng có tác động đáng kể đến các hoạt động nông nghiệp, chẳng hạn như trồng trọt và chăn nuôi. Người nông dân cần phải đối mặt với sự biến đổi thời tiết và điều chỉnh khẩu phần và công việc của họ tương ứng. Ngoài ra, non tháng có thể ảnh hưởng tới giao thông và sự hoạt động hàng ngày của con người.

Trong các khu vực có non tháng, người dân thường mong chờ giai đoạn này để thấy những dấu hiệu của sự hồi sinh của thiên nhiên sau mùa đông lạnh giá, và trước khi mùa xuân chính thức bắt đầu.
Non tháng là một biên giới mờ giữa mùa đông và mùa xuân, và có thể có những đặc điểm riêng tùy thuộc vào địa điểm cụ thể. Dưới đây là một số chi tiết về non tháng:

1. Thời gian: Non tháng thường kéo dài từ vài tuần đến một tháng, tùy thuộc vào khu vực. Ở Bắc Mỹ, ví dụ, non tháng thường diễn ra vào cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3. Trong khi đó, ở các khu vực núi cao hơn như vùng Alp ở châu Âu, non tháng có thể kéo dài đến đầu tháng 5.

2. Biến đổi thời tiết: Trong non tháng, thời tiết có thể biến đổi nhanh chóng từ rét đến ấm, từ tuyết đến mưa. Sự thay đổi này bởi vì ánh sáng mặt trời mạnh mẽ hơn kéo dài thêm vào ngày, gây ra sự tan chảy của tuyết và băng. Tuy nhiên, ban đêm vẫn có thể có lạnh và sương giá, và nhiệt độ có thể giảm xuống gần hoặc dưới điểm đọng băng.

3. Những dấu hiệu của non tháng: Non tháng thường được nhận biết qua những dấu hiệu của sự hồi sinh của thiên nhiên sau mùa đông. Cây xanh nẩy mầm, hoa nở, và chim hót là những dấu hiệu rõ ràng nhất của non tháng. Đồng thời, các loại chim di cư cũng thường quay trở lại khu vực sau khi đã đi qua mùa đông ở các điểm nhiệt đới hơn.

4. Ảnh hưởng đến nông nghiệp và hoạt động hàng ngày: Non tháng có thể có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động nông nghiệp. Nếu cây trồng đã nẩy mầm trong non tháng và sau đó gặp sự đông lạnh lại, chúng có thể bị tổn thương hoặc chết. Ngoài ra, sự biến đổi thời tiết trong non tháng có thể ảnh hưởng tới giao thông và các hoạt động hàng ngày của con người.

5. Văn hóa và lễ hội: Trong một số văn hóa và khu vực, non tháng được coi là một khoảng thời gian đặc biệt và được mừng trong các lễ hội địa phương. Ví dụ, ở Thụy Điển, người ta tổ chức lễ hội "Valborgsmässoafton" vào cuối tháng 4, để chào đón non tháng và mùa xuân.

6. Ý nghĩa: Non tháng mang ý nghĩa của sự chuyển giao từ mùa đông sang mùa xuân. Đó là một giai đoạn kỳ diệu khi thiên nhiên trở lại đời sống sau một thời gian ngủ đông. Non tháng là lúc người ta hy vọng và mong đợi điều tốt đẹp trong tương lai.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "non tháng":

Các thang đo tầm soát ngắn nhằm giám sát mức độ phổ biến và xu hướng của các căng thẳng tâm lý không đặc hiệu Dịch bởi AI
Psychological Medicine - Tập 32 Số 6 - Trang 959-976 - 2002

Bối cảnh. Một thang đo sàng lọc 10 câu hỏi về căng thẳng tâm lý và một thang đo dạng ngắn gồm sáu câu hỏi nằm trong thang đo 10 câu hỏi đã được phát triển cho Cuộc Khảo sát Phỏng vấn Y tế Quốc gia của Hoa Kỳ (NHIS) được thiết kế lại.

Phương pháp. Các câu hỏi thí điểm ban đầu đã được thực hiện trong một cuộc khảo sát qua thư toàn quốc tại Hoa Kỳ (N = 1401). Một tập hợp câu hỏi rút gọn sau đó đã được thực hiện trong một cuộc khảo sát qua điện thoại toàn quốc tại Hoa Kỳ (N = 1574). Thang đo 10 câu hỏi và sáu câu hỏi, mà chúng tôi gọi là K10 và K6, được xây dựng từ tập hợp câu hỏi rút gọn dựa trên các mô hình Lý thuyết Ứng phó Mục. Các thang đo này đã được kiểm chứng trong một cuộc khảo sát đánh giá lâm sàng hai giai đoạn (N = 1000 cuộc phỏng vấn sàng lọc qua điện thoại ở giai đoạn đầu, sau đó là N = 153 cuộc phỏng vấn lâm sàng trực tiếp ở giai đoạn thứ hai đã chọn quá mẫu những người trả lời giai đoạn đầu mà có sàng lọc dương tính với các vấn đề cảm xúc) trong một mẫu thông thuận địa phương. Mẫu giai đoạn thứ hai được thực hiện các thang đo sàng lọc cùng với Bảng phỏng vấn Lâm sàng Kết cấu cho DSM-IV (SCID). K6 đã được bao gồm trong Cuộc Khảo sát Phỏng vấn Y tế Quốc gia Hoa Kỳ năm 1997 (N = 36116) và 1998 (N = 32440), trong khi K10 được bao gồm trong Cuộc Khảo sát Quốc gia về Sức khỏe Tâm lý và Sức khỏe Tâm thần tại Úc năm 1997 (N = 10641).

Kết quả. Cả K10 và K6 đều có độ chính xác tốt trong phạm vi 90-99 phần trăm của phân bố dân số (độ lệch chuẩn của các điểm chuẩn hóa trong phạm vi từ 0,20 đến 0,25), cũng như các đặc điểm tâm lý nhất quán qua các mẫu phụ của dân số học xã hội chính. Các thang đo này phân biệt một cách mạnh mẽ giữa các trường hợp bệnh và không bệnh của các rối loạn DSM-IV/SCID trong cộng đồng, với diện tích dưới đường cong Đặc điểm Hoạt động Người nhận (ROC) là 0,87–0,88 cho các rối loạn có điểm Đánh giá Toàn cầu về Chức năng (GAF) từ 0–70 và 0,95–0,96 cho các rối loạn có điểm GAF từ 0–50.

Kết luận. Sự ngắn gọn, các đặc điểm tâm lý mạnh mẽ và khả năng phân biệt các trường hợp DSM-IV với không phải trường hợp làm cho K10 và K6 trở nên hấp dẫn cho việc sử dụng trong các khảo sát y tế đa mục đích. Các thang đo này đã và đang được sử dụng trong các cuộc khảo sát y tế hàng năm của chính phủ tại Mỹ và Canada cũng như trong các cuộc Khảo sát Sức khỏe Tâm thần Thế giới của WHO. Sự kết hợp thường xuyên của K10 hoặc K6 trong các nghiên cứu lâm sàng sẽ tạo ra một cây cầu quan trọng và cho đến nay chưa tồn tại, giữa dịch tễ học cộng đồng và lâm sàng.

#Thang đo sàng lọc #căng thẳng tâm lý không đặc hiệu #thang đo K10 #thang đo K6 #Cuộc Khảo sát Phỏng vấn Y tế Quốc gia #các thuộc tính tâm lý #các mẫu dân số học xã hội #rối loạn DSM-IV/SCID #các cuộc Khảo sát Sức khỏe Tâm thần Thế giới WHO.
Phiên bản rút gọn của Thang đánh giá trầm cảm, lo âu và căng thẳng (DASS‐21): Tính giá trị cấu trúc và dữ liệu chuẩn hóa trong một mẫu lớn không có bệnh lý Dịch bởi AI
British Journal of Clinical Psychology - Tập 44 Số 2 - Trang 227-239 - 2005

Mục tiêu. Kiểm tra tính giá trị cấu trúc của phiên bản rút gọn của thang đánh giá trầm cảm, lo âu và căng thẳng (DASS-21), đặc biệt đánh giá xem căng thẳng theo chỉ số này có đồng nghĩa với tính cảm xúc tiêu cực (NA) hay không hay nó đại diện cho một cấu trúc liên quan nhưng khác biệt. Cung cấp dữ liệu chuẩn hóa cho dân số trưởng thành nói chung.

Thiết kế. Phân tích cắt ngang, tương quan và phân tích yếu tố xác nhận (CFA).

Phương pháp. DASS-21 được áp dụng cho một mẫu không có bệnh lý, đại diện rộng cho dân số trưởng thành tại Vương quốc Anh (N=1,794). Các mô hình cạnh tranh về cấu trúc tiềm ẩn của DASS-21 đã được đánh giá sử dụng CFA.

Kết quả. Mô hình có sự phù hợp tối ưu (RCFI = 0.94) có cấu trúc tứ phương, bao gồm một yếu tố chung của rối loạn tâm lý cộng với các yếu tố cụ thể vuông góc của trầm cảm, lo âu, và căng thẳng. Mô hình này có sự phù hợp tốt hơn đáng kể so với mô hình cạnh tranh kiểm tra khả năng rằng thang đo Stress chỉ đơn giản đo NA.

Kết luận. Các thang đo phụ DASS-21 có thể được sử dụng hợp lệ để đo lường các khía cạnh của trầm cảm, lo âu và căng thẳng. Tuy nhiên, mỗi thang đo phụ này cũng chạm đến một khía cạnh chung hơn của rối loạn tâm lý hoặc NA. Sự tiện ích của thang đo được nâng cao nhờ có dữ liệu chuẩn hóa dựa trên một mẫu lớn.

#Thang đánh giá trầm cảm #lo âu #căng thẳng #DASS-21 #giá trị cấu trúc #dữ liệu chuẩn hóa #phân tích yếu tố xác nhận #rối loạn tâm lý #cảm xúc tiêu cực.
Thang đo Trầm cảm, Lo âu, và Căng thẳng (DASS): Dữ liệu chuẩn và cấu trúc tiềm ẩn trong mẫu lớn không lâm sàng Dịch bởi AI
British Journal of Clinical Psychology - Tập 42 Số 2 - Trang 111-131 - 2003

Mục tiêu: Cung cấp dữ liệu chuẩn cho Vương quốc Anh về Thang đo Trầm cảm, Lo âu, và Căng thẳng (DASS) và kiểm tra giá trị hội tụ, phân biệt, và giá trị cấu trúc của thang đo này.

Thiết kế: Phân tích cắt ngang, tương quan, và phân tích yếu tố khẳng định (CFA).

Phương pháp: DASS được áp dụng đối với mẫu không lâm sàng, đại diện rộng rãi cho dân số người lớn tại Vương quốc Anh (N = 1,771) về các biến nhân khẩu học. Các mô hình cạnh tranh của cấu trúc tiềm ẩn DASS được rút ra từ các nguồn lý thuyết và thực nghiệm, và được đánh giá bằng phân tích yếu tố khẳng định. Phân tích tương quan được sử dụng để xác định ảnh hưởng của các biến nhân khẩu học lên điểm số DASS. Giá trị hội tụ và phân biệt của thang đo được kiểm tra thông qua tương quan giữa thang đo này với hai thang đo khác về trầm cảm và lo âu (HADS và sAD), và một thang đo về khả năng xúc cảm tích cực và tiêu cực (PANAS).

Kết quả: Mô hình tốt nhất (CFI = .93) của cấu trúc tiềm ẩn DASS bao gồm ba yếu tố có mối tương quan tương ứng với các thang đo trầm cảm, lo âu và căng thẳng, với lỗi liên kết được phép giữa các mục cấu thành phụ thang DASS. Các biến nhân khẩu học chỉ có ảnh hưởng rất nhỏ đối với điểm số DASS. Độ tin cậy của DASS là xuất sắc, và thang đo sở hữu giá trị hội tụ và phân biệt đầy đủ.

Kết luận: DASS là một thang đo đáng tin cậy và có giá trị trong việc đánh giá các cấu trúc mà nó được thiết kế để phản ánh. Tính hữu dụng của thang đo này đối với các bác sĩ tại Vương quốc Anh được nâng cao nhờ việc cung cấp dữ liệu chuẩn từ các mẫu lớn.

#Thang đo Trầm cảm Lo âu Căng thẳng #dữ liệu chuẩn #giá trị hội tụ #giá trị phân biệt #mẫu không lâm sàng #phân tích yếu tố khẳng định #ảnh hưởng nhân khẩu học #PANAS #HADS #sAD
Khoa Học Tâm Lý Về Thai Kỳ: Các Quá Trình Căng Thẳng, Mô Hình Sinh- Tâm- Xã Hội, và Những Vấn Đề Nghiên Cứu Đang Nổi Lên Dịch bởi AI
Annual Review of Psychology - Tập 62 Số 1 - Trang 531-558 - 2011

Khoa học tâm lý về thai kỳ đang phát triển nhanh chóng. Một trong những trọng tâm chính là các quá trình căng thẳng trong thai kỳ và tác động của chúng đến sinh non và cân nặng thấp khi sinh. Bằng chứng hiện tại chỉ ra rằng lo âu trong thai kỳ là một yếu tố rủi ro chủ chốt trong nguyên nhân gây sinh non, trong khi căng thẳng mãn tính và trầm cảm liên quan đến nguyên nhân gây cân nặng thấp khi sinh. Các quá trình trung gian chính mà những tác động này được quy cho, tức là cơ chế thần kinh nội tiết, viêm nhiễm, và hành vi, sẽ được xem xét một cách ngắn gọn, và nghiên cứu về việc ứng phó với căng thẳng trong thai kỳ cũng sẽ được khám phá. Bằng chứng về sự hỗ trợ xã hội và cân nặng khi sinh cũng sẽ được xem xét với sự chú ý đến những khoảng trống trong nghiên cứu về các cơ chế, mối quan hệ với bạn đời, và ảnh hưởng văn hóa. Các hậu quả phát triển thần kinh của căng thẳng trước sinh được làm nổi bật, và các nguồn lực phục hồi trong số những người phụ nữ mang thai được hình thành. Cuối cùng, một phương pháp lý thuyết đa cấp nhằm nghiên cứu lo âu thai kỳ và sinh non được trình bày để kích thích các nghiên cứu trong tương lai.

#thai kỳ #căng thẳng #sinh non #cân nặng thấp khi sinh #hỗ trợ xã hội #phát triển thần kinh
Kích hoạt khác biệt của gia đình kinase protein liên quan đến sucrose Nonfermenting1 tại gạo bởi áp lực căng thẳng thẩm thấu cao và axit abscisic[W] Dịch bởi AI
Plant Cell - Tập 16 Số 5 - Trang 1163-1177 - 2004
Thông tin tóm tắt

Cho đến nay, một số lượng lớn các chuỗi protein kinase thuộc gia đình protein kinase liên quan đến sucrose nonfermenting1 (SnRK2) đã được tìm thấy trong cơ sở dữ liệu. Tuy nhiên, chỉ có một số lượng giới hạn các thành viên trong gia đình đã được mô tả đặc điểm và gắn liền với tín hiệu axit abscisic (ABA) và căng thẳng thẩm thấu cao. Chúng tôi đã xác định được 10 protein kinase SnRK2 mã hóa bởi bộ gen của gạo (Oryza sativa). Mỗi thành viên trong số 10 thành viên này được biểu hiện trong tế bào chất của tế bào nuôi cấy và quy định của chúng đã được phân tích. Tại đây, chúng tôi chứng minh rằng tất cả các thành viên trong gia đình đều được kích hoạt bởi căng thẳng thẩm thấu cao và ba trong số đó cũng được kích hoạt bởi ABA. Đáng ngạc nhiên là không có thành viên nào chỉ được kích hoạt bởi ABA. Việc kích hoạt được tìm thấy là thông qua quá trình phosphoryl hóa. Bên cạnh sự phân biệt chức năng liên quan đến quy định ABA, sự phụ thuộc vào căng thẳng thẩm thấu mạnh cũng khác nhau giữa các thành viên. Chúng tôi cho thấy rằng phần đuôi C tương đối khác biệt là nguyên nhân chính cho sự phân biệt chức năng này, mặc dù phần kinase cũng đóng góp cho những khác biệt này. Kết quả này chỉ ra rằng gia đình protein kinase SnRK2 đã tiến hóa đặc biệt cho tín hiệu căng thẳng thẩm thấu cao và rằng các thành viên cá nhân đã có được những tính chất điều tiết đặc biệt, bao gồm cả phản ứng ABA bằng cách điều chỉnh phần đuôi C.

Trang trại Thẳng đứng: Tổng quan về các phát triển và ý nghĩa đối với Thành phố Thẳng đứng Dịch bởi AI
Buildings - Tập 8 Số 2 - Trang 24

Bài báo này thảo luận về nhu cầu ngày càng tăng đối với các trang trại thẳng đứng bằng cách xem xét các vấn đề liên quan đến an ninh lương thực, sự tăng trưởng dân số đô thị, sự thiếu hụt đất canh tác, "cự ly lương thực" và các phát thải khí nhà kính (GHG) liên quan. Các nhà quy hoạch đô thị và các nhà lãnh đạo nông nghiệp đã lập luận rằng các thành phố sẽ cần sản xuất thực phẩm nội bộ để đáp ứng nhu cầu của dân số gia tăng và tránh tình trạng tắc nghẽn nghiêm trọng, ô nhiễm độc hại và giá thực phẩm không thể chấp nhận được. Bài báo xem xét nông nghiệp đô thị như một giải pháp cho những vấn đề này bằng cách kết hợp sản xuất và tiêu thụ thực phẩm ở một nơi, trong đó trang trại thẳng đứng là phù hợp cho các khu vực đô thị nơi đất có sẵn thường bị hạn chế và tốn kém. May mắn thay, những tiến bộ gần đây trong công nghệ nhà kính như thủy canh, khí canh và thuỷ sản nông nghiệp đã cung cấp một tương lai đầy hứa hẹn cho khái niệm trang trại thẳng đứng. Những hệ thống công nghệ cao này đại diện cho một sự thay đổi mô hình trong canh tác và sản xuất thực phẩm và cung cấp các phương pháp thích hợp và hiệu quả cho nông nghiệp thành phố bằng cách tối thiểu hóa công tác bảo trì và tối đa hóa sản lượng. Sau khi xem xét những công nghệ này và kiểm tra các nguyên mẫu dự án, chúng tôi nhận thấy rằng những nỗ lực này có thể gieo hạt cho sự hiện thực hóa của trang trại thẳng đứng. Tuy nhiên, bài báo kết thúc bằng cách suy đoán về các hậu quả, lợi ích và bất lợi của việc triển khai trang trại thẳng đứng. Tính khả thi kinh tế, các quy định, quy tắc và sự thiếu hụt chuyên môn vẫn là những trở ngại chính trong con đường thực hiện trang trại thẳng đứng.

#thiên niên kỷ #trang trại thẳng đứng #nông nghiệp đô thị #an ninh lương thực #công nghệ nhà kính
Viêm Chorioamnionitis Lâm Sàng, Nồng Độ Cytokine Tăng Cao và Tổn Thương Não ở Trẻ Sơ Sinh Đủ Tháng Dịch bởi AI
American Academy of Pediatrics (AAP) - Tập 110 Số 4 - Trang 673-680 - 2002

Mục tiêu. Xác định phản ứng cytokine viêm khởi đầu ở những trẻ đủ tháng sinh ra từ các bà mẹ có chorioamnionitis lâm sàng và đánh giá xem phản ứng cytokine có liên quan đến trầm cảm trong khi sinh, khám sức khỏe thần kinh bất thường, và tổn thương não do thiếu oxy-ischémia (HIE).

Phương pháp. Những trẻ sơ sinh được tiếp xúc với chorioamnionitis và nhập vào đơn vị chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh (n = 61) đã được tiến hành nghiên cứu theo chiều dọc. Nồng độ cytokine được đo từ máu cuống rốn và ở 6 và 30 giờ sau khi sinh. Giá trị đối chứng (n = 50) được xác định từ máu cuống rốn của trẻ sơ sinh khỏe mạnh đủ tháng. Các thử nghiệm ELISA đã được thực hiện cho interleukin (IL)-1β; IL-6; IL-8; regulated on activation, normal T-cell expressed and secreted (RANTES); macrophage inflammatory protein-1α; và tumor necrosis factor-α. Những cuộc kiểm tra thần kinh có mù được thực hiện tuần tự sử dụng điểm số Dubowitz sửa đổi tại 6 và 30 giờ.

Kết quả. Nồng độ IL-6 ở cuống rốn (1071 ± 1517 so với 65 ± 46 pg/mL), IL-8 (2580 ± 9834 so với 66 ± 57 pg/mL) và RANTES (95 917 ± 16 518 so với 54 000 ± 14 306 pg/mL) chỉ cao hơn ở trẻ có chorioamnionitis so với trẻ đối chứng. IL-6 tăng lên ở 6 giờ với mức 1451 ± 214 pg/mL, sau đó giảm 5 lần ở 30 giờ trái ngược với sự giảm liên tục theo thời gian ở IL-8 và RANTES. Không có mối liên hệ nào giữa các cytokine và trầm cảm khi sinh. Điểm số Dubowitz sửa đổi có sự tương quan với IL-6 tại 6 giờ (r = 0.5). Những trẻ có HIE/co giật (n = 5) có nồng độ cytokine cao hơn đáng kể ở 6 giờ so với những trẻ không có (n = 56): IL-6 (3130 so với 1219 pg/mL), IL-8 (5433 so với 780 pg/mL), và RANTES (97 396 so với 46 914 pg/mL).

Kết luận. Có sự liên quan đáng kể giữa các bất thường trong khám thần kinh và nồng độ cytokine, với nồng độ cytokine cao nhất được quan sát thấy ở trẻ phát triển HIE/co giật.

Ngộ độc thai kỳ ở mẹ có liên quan đến sự giảm tần suất xuất huyết mô nguyên sinh ở trẻ sơ sinh non tháng Dịch bởi AI
Journal of Child Neurology - Tập 7 Số 1 - Trang 70-76 - 1992

Để đánh giá các yếu tố nguy cơ trước sinh và trong sinh liên quan đến sự phát triển của xuất huyết mô nguyên sinh - xuất huyết nội thất (GMH-IVH), chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu dịch tễ học tiến cứu trên 449 trẻ sơ sinh có trọng lượng lúc sinh dưới 1501 gram. Nghiên cứu này cho phép chúng tôi kiểm tra giả thuyết mà chúng tôi đã đưa ra trước đó rằng trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị tiền sản giật có nguy cơ phát triển GMH-IVH giảm đáng kể. Trong số này, bảy mươi hai (16%) trẻ sơ sinh đã phát triển GMH-IVH. Một (2,5%) trong số 40 bà mẹ có chẩn đoán tiền sản giật và 71 (17,4%) trong số 409 bà mẹ không bị tiền sản giật đã sinh ra những trẻ sơ sinh phát triển GMH-IVH. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 6/107 (5,6%) trẻ sơ sinh của các bà mẹ bị cao huyết áp, bao gồm 4/69 (5,8%) của trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị cao huyết áp thai kỳ, so với 66/352 (18,8%) trẻ sơ sinh từ các bà mẹ không mắc cao huyết áp. Chỉ 7,3% (8/108) trẻ sinh ra từ các bà mẹ có protein niệu đã bị GMH-IVH, so với 18,3% (64/350) trẻ sơ sinh có mẹ không mắc protein niệu. GMH-IVH đã được quan sát thấy ở 5/89 (5,6%) trẻ sơ sinh có mẹ bị cả cao huyết áp và protein niệu, trong khi 63/332 (19%) trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có cả hai yếu tố đó đã phát triển GMH-IVH. Trong phân tích hồi quy logistic từng bước, những phát hiện quan trọng này không thể được giải thích bởi sự hiện diện của cơn chuyển dạ, toan máu sau sinh, cần phải đặt nội khí quản, việc dùng corticosteroids trước sinh, trọng lượng lúc sinh hay tuổi thai. Ngoài ra, chúng tôi phát hiện rằng mẹ nhận được magnesi sulfat có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ngay cả đối với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ không có tiền sản giật. Chúng tôi giả thuyết rằng mối liên hệ giữa tiền sản giật và GMH-IVH có thể liên quan đến tác động của prostaglandin. Giá trị prostaglandin I2 (PGI2) ở mẹ, nhau thai và dây rốn giảm thường thấy ở những phụ nữ bị tiền sản giật. Do đó, trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị tiền sản giật có thể ở trong trạng thái sinh lý tương tự như những người đã nhận indomethacin, một chất ức chế cyclooxygenase khiến giảm mức PGI2 và là một tác nhân dự phòng GMH-IVH hiệu quả. Chúng tôi kết luận rằng tiền sản giật/ngộ độc thai kỳ ở mẹ trong tam cá nguyệt ba sớm có liên quan đến nguy cơ giảm GMH-IVH ở trẻ sơ sinh non tháng. (J Child Neurol 1992;7:70-76).

Phản Ứng Sinh Lý Của Cá Hồi Coho Non (Oncorhynchus kisutch) và Cá Hồi Cầu Vồng (Salmo gairdneri) Đối Với Căng Thẳng Do Bắt Giữ và Đông Đúc Trong Nuôi Trồng Thủy Sản Cường Độ Cao Dịch bởi AI
Canadian Science Publishing - Tập 33 Số 12 - Trang 2699-2702 - 1976

Việc di chuyển cá hồi coho (Oncorhynchus kisutch) dài 4–5 inch được nuôi trong nước mềm (20 ppm CaCO3) từ mật độ tải nhẹ 0.5 lb/ft3 lên 1, 2, hoặc 4 lb/ft3 (chỉ số mật độ, DI = 0.1, 0.2, 0.4, 0.8) gây ra căng thẳng đáng kể, như được chỉ ra bởi việc mất hành vi ăn uống, nhưng chỉ có những rối loạn sinh lý tối thiểu, được biểu hiện bởi việc không có tăng đường huyết hoặc giảm clorua huyết. Tuy nhiên, việc di chuyển chúng đến 6 hoặc 12 lb/ft3 (DI = 1.2, 2.4) gây ra căng thẳng sinh lý đáng kể cần ít nhất một tuần để hồi phục. Cá hồi coho đang trong quá trình biến đổi (smolting) bị căng thẳng sinh lý bởi mật độ quần thể từ 1 lb/ft3 trở lên và một bệnh nhiễm khuẩn thận do vi khuẩn corynebacterium cũng được kích hoạt. Cá hồi cầu vồng (Salmo gairdneri) (4–5 in.) bị căng thẳng sinh lý khi di chuyển và được giữ ở mật độ 1 lb/ft3 trở lên nhưng vẫn duy trì hành vi ăn uống bình thường. Điều này cho thấy rằng căng thẳng do bắt giữ và đông đúc sẽ được giảm thiểu trong các vùng nước mềm nếu mật độ trong xe phân phối cá hoặc trong ao hoặc đường chạy trong quá trình điều trị bệnh được giữ ở mức 0.1–0.5 lb/gal.

Thời gian nhịn ăn trước phẫu thuật được tối ưu hóa làm giảm nồng độ cơ thể ketone và ổn định huyết áp động mạch trung bình trong quá trình gây mê cho trẻ em dưới 36 tháng tuổi: một nghiên cứu quan sát theo chiều dọc Dịch bởi AI
Paediatric Anaesthesia - Tập 26 Số 8 - Trang 838-843 - 2016
Tóm tắtThông tin nền

Trong gây mê nhi khoa, các hướng dẫn về thời gian nhịn ăn trước phẫu thuật vẫn thường bị vượt quá.

Mục tiêu

Mục tiêu của nghiên cứu quan sát lâm sàng không can thiệp này là đánh giá tác động của quản lý nhịn ăn trước phẫu thuật được tối ưu hóa (OPT) đến nồng độ glucose, cơ thể ketone, cân bằng acid – base và sự thay đổi huyết áp động mạch trung bình (MAP) trong quá trình gây mê ở trẻ em.

Phương pháp

Các trẻ em từ 0-36 tháng tuổi được lên lịch phẫu thuật theo kế hoạch với OPT (n = 50) được so sánh với các đối tượng ngang tuổi đã được nghiên cứu trước khi tối ưu hóa thời gian nhịn ăn trước phẫu thuật (OLD) (n = 50) và được ghép cặp theo cân nặng, độ tuổi và chiều cao.

Kết quả

Ở trẻ em với OPT (n = 50), thời gian nhịn ăn trung bình (6.0 ± 1.9 h so với 8.5 ± 3.5 h, P < 0.001), độ lệch so với hướng dẫn (ΔGL) (1.2 ± 1.4 h so với 3.7 ± 3.1 h, P < 0.001, ΔGL>2 h 8% so với 70%), nồng độ cơ thể ketone (0.2 ± 0.2 mmol·l−1 so với 0.6 ± 0.6 mmol·l−1, P < 0.001), và tỷ lệ hạ huyết áp (MAP <40 mmHg, 0 so với 5, P = 0.022) đều thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê, trong khi MAP sau khi gây mê thì cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê (55.2 ± 9.5 mmHg so với 50.3 ± 9.8 mmHg, P = 0.015) so với nhóm trẻ em trong OLD (n = 50). Các chỉ số glucose, lactate, bicarbonate, thừa cơ sở, và khoảng cách anion không khác biệt một cách có ý nghĩa.

Tổng số: 103   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10